Sơ lược các cấp độ của địa lý:
Cấp 1: Bát trạch, do ở mức độ thấp nên độ số không đòi hỏi chính xác.
Cấp 2: Huyền không, ở mức độ cao hơn nên đòi hỏi sự chính xác về độ số cao hơn, nếu lệch khoảng 3 độ phải tính kiêm hướng. Nếu hướng không hợp theo bát trạch nhưng được vị trí tốt thì vẫn tốt hơn là hướng hợp mà vị trí tạo ra cách cục xấu.
Cấp 3: Khai môn điểm thần sát, đòi hỏi phải chính xác độ số, nếu cách đường phân kim của theo vòng 60 thấu địa long khoảng 0,5 độ là không tính được. Nếu cách cục và hướng tốt nhưng điểm thần sát xấu thì cũng không dùng đặt các tiết minh (bàn thờ, giường ngủ, bàn học, bếp…) được. 16 các cục Huyền không như là bình chứa (hình thức), thần sát như là rượu (nội dung).
Cao cấp: Tam quái, đòi hỏi ngoài sự chính xác về độ số thì thầy địa lý phải có
16 CÁCH CỤC CỦA HUYỀN KHÔNG HỌC
Nhất Vị: là vị trí đặt
Nhị hướng: hướng xác định theo cửu cung phi của bản mệnh
Hướng
1- Nhất bạch, 2 – Nhị hắc, 3 – Tam bích, 4 – Tứ lục, 5 -Ngũ hoàng, 6 – Lục bạch, 7 – Thất
xích, 8 – Bát bạch, 9 – Cửu tử.
Song tinh chính khí bao giờ cũng tại hướng hoặc tại sơn.
Tại hướng tạo ra vượng tài cách (hoặc hạ thuỷ cách)
Tại sơn là vượng đinh cách (hoặc thướng sơn cách)
(1) Khôi tinh cung (1 + 4):
Vượng: thành “Đăng khoa đoạt kim bảng cách”, thuận lợi cho họchành thi cử, thông
minh, anh kiệt, tuấn tú: đặt các tiết minh (bàn học, bàn làm việc, giường ngủ của trẻ em…).
Suy: Học tài thi phận.
(2) Phúc đức (Tử tức cung):(4 + 9)
Vượng: Đem lại phúc cho gia đình, cho trạch, đông con, nhiềucháu, gia đình hoà thuận
anh em sum họp. Muốn cầu con đặt giường ngủ vào cung này (kết hợp với xoay bếp) để đến
năm, ngày giờ nó sinh nhập thì được.
Suy: Hiếm nhân đinh, anh em bất hoà.
(3) Thôi quan cung (1 + 6; 6 + 8):
Vượng: Chủ quan chức, địa vị, danh tiếng, sự nghiệp. Tốt đẹp cho công việc, cho quá
trình phát triển sự nghiệp, công danh của mình (đặt phòng làm việc hoặc cửa…)
Suy: quan vận bất hanh thông, hay bị gẫy đổ, điều tiếng, thị phi, dời đổi trong quan
trường.
(4) Tật ách cung (1 + 2; 1 + 5;2 + 5; 3 +5; 4 + 5):
Ốm đau, bệnh tật, tai hoạ.Nên đặt bất tiết minh (Nhà tắm, vệ sinh, nước thải…)
4 + 5 vượng thành “Hồi lộc chi tai” cách(lộc đến kèm tai họa), suy là hoạ hại.
2 + 5 nếu suy thành “Nhị hắc ôn thần sát”
(5) Đào hoa cung (4 + 7):
Vượng: Hỷ khí, chủ sự may mắn, sớm thành đạt, được nhiều người giúp đỡ, tình cảm,
tình duyên, sinh ra người đẹp, khôi ngô,có duyên (Người chưa có gia đình nên đặt cửa, bàn làm
việc vào đây, thanh niên mới đi làm đặt bàn làm việc vào đây thì tốt. Kỵ với người có gia đình,
con cái, bàn thờ, giường đặt vào; không tốt hay sinh sự).
Suy: Hoạ đào hoa sát (tai hoạ vì tình cảm không trong sáng, không lành mạnh).
(6) Tài lộc cung (1 + 7; 3 + 9; 7 + 8; 8 +9):
Vượng: Chủ tiền tài, giàu có. Tăng tài tiến lộc, làm ăn thịnh vượng phát tài. Đẹp nhất là
đặt cửa ra vào (tài lộc lâm môn là đẹp nhất), hoặc cầu thang (vì động khí mạnh), phòng làm
việc, phòng ngủ, bếp nhưng phải xem chủ khách để phụ hoạ thêm vì bếp hành hoả (ví dụ 1-7 đặt
bếp thì tốt, nhưng 7-8 thì tài lộc vẫn cón hưng lại ngộ song hao thoát vợi tiền). Nếu mà ra Tuế
sát thì có lộc nhưng hay gặp tai hoạ, nếu Tuế hình là lộc chi hình thì có lộc nhưng hay bị hình,
rắc rối.
Suy: làm ăn khó khăn hơn, có tiền nhưng hay hao hụt (giống như Lộc ngộ song Hao).
(7) Kiếp tài cung (3 + 7):
Phá sản, mất mát, suy bại, làm ăn khó phát triển, không thịnh vượng, nếu phát triển cũng
dễ phá sản. Nên để nhà vệ sinh, nhà tắm,kho hoặc những nơi tĩnh, không động (vì càng động
càng kiếp tài mạnh). Suy là “Xuyên tâmsát”
Phải làm cho kiếp tài giảm bớt cái xấu:
Ví dụ: vận 7, cửa ra vào có 3-7 (kiếptài), số 7 là chủ, số 3 là khách, kim khắc mộc là
khắc xuất hung. Tức là hung vượng thì phải làm cho con số 3 vượng là chủ, số 7 là khách, 7
khắc nhập là cát, khi cát tăng thì hung sẽ giảm. Muốn vậy phải trấn để cho 7 là khách thì phải có
sơn: đắp một hòn giả sơn.
(Trong 9 cung của nhà thì Cửa là giá trị nhất, sau đó đến Hướng và sau mới đến Sơn.)
(8) Vô tự cung (5 + 7; 5 + 8):
Không có con cái, hay là có sinh nhưng chết yểu “hữu sinh vô dưỡng”, hoặc chỉ có con
gái không có con trai.
(9) Dịch mã cung (2 + 6; 4 + 6):
Vượng: chủ đi lại, nhanh nhẹn, năng động, thuận lợi trong công tác,thành đạt và hay
phải đi lại nhiều hoặc sống ở nước ngoài, hỗ trợ cho các cung khác để hưng khởi hơn.
Suy: chủ tai nạn giao thông, khó khăn trong đi lại, xuất ngoại, sinh người ham chơi lười
nhác. (Nếu gặp Tuế sát, Tuế hình là xấu đi lại có khi bị tai nạn ở chân).
(10) Cô Quả cung (2 + 9; 5 + 6):
Chủ cô đơn (như sao Cô thần, Quả tú) nam chậm lấy vợ, nữ chậm lấy chồng. Mỗi
người sống một nơi, có khi già vẫn cô đơn con cái không ở cùng.
(11) Hoạ hại cung (1 + 3; 3 + 6; 5 + 9; 6+ 7; 7 + 9):
Chủ về tai hoạ vận hạn, tai bay vạ gió, điều tiếng và ốm đau. Nên đặt bất tiết minh
(nhà tắm, vệ sinh…).
5 + 9 vượng thành “Hồi lộc chi tai” cách (lộc đến kèm tai họa), vượng thích hợp với
nghề Y, Dược, suy là hoạ hại với thảo dân thành “Cửu hoàng độc chiêu sát”.
7 + 9 suy là “Lưỡng hoả sát”.
6 + 7 suy là “Đao kiếm sát” (7 + 7 suy là song kiếm sát, 6+ 6 suy là song đao sát)
(12) Điền trạch cung (1 + 8; 2 + 7; 2 +8):
Vượng: Thuận lợi cho đát cát, điền trang, địa ốc và phát triển bất động sản (Điền
trạch nhập môn mệnh có Thái âm miếu vượng nên đi buôn đất)
Suy: Hay mất mát đất cát, khó khăn khi tạo dựng bất động sản. 2 + 7 biến thành
“Thiên hoả sát” rất xấu.
(13) Đoạt hồn cung (2 + 4; 3 + 8; 4 +8):
Chỉ về cái chết, giống Tuyệt mệnh (bệnh tật, tai nạn…)Tránh đặt cửa, bàn thờ.
Nên để những cái tĩnh, ít động, bất tiết minh (nhà tắm, vệsinh…).
4 + 8 nếu vượng và trạch bàn tốt với người có đức thì là“ân tình phù trợ cách”
(14) Tụng đình cung (2 + 3):
Chủ sự cãi vã, kiện tụng, tranh chấp (nếu có thêm cột điện hay là sơn cao thì suốt
ngày kiện tụng).
Vượng: Kiện cáo, tranh chấp thường là mình đứng nguyên đơn (đi kiện người).
Suy: Ta là người bị kiện.
Vượng hay suy đều là “Đấu ngưu sát”. Thường tốt với người làm công tác pháp
luật, khi đó được gọi là “Tụng đình cung”.
(15) Hoan lạc cung (3 + 4):
Vượng: chủ sự vui vẻ,hoan hỷ, hay có khách, đặt bếp thì nhậu nhẹt, ăn uống suốt ngày.
Suy: hay gặp hoạ vì hoan hỷ, cãi nhau, hay cờ bạc, chơi bời, trai gái, nghiện hút.
(16) Diên thọ cung (1 + 9; 6 + 9):
Chủ tuổi thọ cao, phúc đức (hai cung Diên thọ và Phúc đức thích hợp đặt bàn
thờ). Nếu bàn thờ ở cung này mà cửa ra Tật ách thì sống lâu mà bệnh tật suốt lại là khổ.
khả năng nhìn được khí (vọng khí, có được sau một thời gian tập các bài tập đặc biệt) từ
đó lập ra các phương trình tam quái Thiên, Địa, Nhân(Thiên: ảnh hưởng cả đời, Địa: 20
năm, Nhân: 1 năm), (Dương cơ Âm phần giống nhau ở đây về cách tính).
Khai môn điểm thần sát
1. Bước 1:
Đo toạ hướng của nhà, hướng của cửa (môn khí, đo từ tâm nhà đến tâm của cửa)
lấy phân kim theo vòng 60 thấu địa long.
Ví dụ: (xem hình vẽ)
- Bước 2:
Trên địa bàn, theo Can của toạ sơn dùng “Ngũ hổ độn” để nạp Cancho 12 địa chi.3. Bước 3:Căn cứ vào Can Chi phân kim của hướng cửa (đại môn), an các thần sát cho 12
chi, nạp âm theo Can Chi của thần sát là hành của nó.
- Bước 4:
Đặt Can Chi của môn khí vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của các thầnsát.Ví dụ 1: Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ),cửa mở hướng Tốn (Tân Tị)
Đặt Tân Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của địa bàn (bảng trên), các Can Chi rơi vào
cung nào an thần sát tương ứng tại đó.
Ví dụ 2:Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ),cửa mở hướng Tị (Ất Tị)
Đặt Ất Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi trong bảng trên, các Can Chi rơi vào cung nào
an thần sát tương ứng tại đó.
Ví dụ 3: Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Mùi (Đinh Mùi)
Đặt Đinh Mùi vào trung cung chạy thuận đến Can Chi trong bảng trên, các Can Chi rơi vào cung nào
an thần sát tương ứng tại đó.
Ý nghĩa của thần sát
Thiên Lộc
Lộc là phương Lâm quan của Tuế can, tính của ngũ hành, Lâm quan tối cát. Lâm quan là thời đương thịnh, đang lên phơi phới là đúng đạo sinh thành gần tới vượng mà là lộc,bởi vượng thì thái quá. Đạo của càn khôn là cái gì cực thịnh tất suy, chỉ có cái gần tới vượng mới là thế đi lên vì vậy mà lấy Giáp lộc ở dần, ất lộc ở mão, Bính Mậu lộc ở tị, Đinh Kỷ lộc ở ngọ, Canh lộc ở thân, Tân lộc ở dậu, Nhâm lộc ở hợi, Quý lộc ở tý, đó chính là lấy Lâm quan làm lộc vậy.Lộc cách là cách có Lộc ra chính môn. Nhàcó cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính môn sẽ đem lại nhiều sự may mắn về tiền bạc, gia sản tăng tiến, điền trang hưng vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh tuấn tú lại khéo léo, tài năng, giỏi kinh doanh, làm ăn tấn phát. Tuy nhiên cũng cần phải ra sinh vượng lộc, tránh không vong tử tuyệt, nếu ngộ không vong tử tuyệt thì khí tán không tụ là vôdụng, có lộc cũng như không, tài sản dù có như núi rồi cũng tiêu tán hết, gọi là tuyệt lộc. Nếu gặp thoái khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai thì tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khảái nhưng ngỗ nghịch, trong gia đình hay sinh nội loạn,cãi vã, cả ngày ồn ào khiến mọi người bấtyên.
Lộc cung là cát cung vì vậy ngoài cách đặtcửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ,giường ngủ, tất cả được lộc đều tốt. Tuy nhiên Lộc phải cư đúng cung Tài là Lộc cư Lộc vị mới thật sự đắc cách, mới thật sự tốt đẹp vậy.
Thiên Mã
Mã là ngựa trời, lấy tam hợp cục của địachi gặp xung khắc làm mã. Như Dần Ngọ Tuất tam hợp cục hoá hoả, lấy Thân là vị trí racủa thuỷ cục là hoả thuỷ giao chiến, lại Dần Thân tương xung mà làm mã. Thân Tý Thìn tam hợp cục hoá thuỷ, lấy Dần là vị trí ra của hoả cục là thuỷ hoả giao chiến lại Dần Thân tương xung mà làm mã. Tị Dậu Sửu tam hợp cục hoá kim, lấy Hợi là vị trí ra của mộc cục là kim mộc tương tranh, lại Tị Hợi đối xung mà làm mã. Hợi Mão Mùi tam hợp cục hoá mộc, lấy Tị là vị trí ra của kim cục là mộc kim tương khắc, lại Tị Hợi đối xung mà làm mã. Vì vậy mà nói mã chủ trạng thái động, là tượng của sự thay đổi, bôn tẩu.
Mã ra chính môn thì gia trạch luôn gặp sự may mắn, tin vui ngất trời, phát tài nhanh chóng, mọi công việc đều trôi trảy thuận lợi, thường sinh người thông minh, nhanh nhẹn, khôi ngô tuấn tú lại hay xuất ngoại ra ngoài ăn ra làm lên. Tuy nhiên cũng như Lộc, Mã cần phải gặp sinh vượng, tránh không vong tử tuyệt, gặpsinh vượng thì tốc phát lại sinh người thông minh cao quý, trí lự, thông biến, bình sinh nhiều danh vọng. Gặp không vong tử tuyệt thì giang hồ, bôn tẩu nơi xa để mưu sinh, tha phương cầu thực, công danh thì thăng giáng thất thường, sự nghiệp thì long đong lận đận lại dễ gặp tai nạn về chân tay, công việc thì có đầu không có đuôi, thành công ít mà thất bại thì nhiều. Gặp thoái khí lại ra cung đoài trực cùng đào hoa thì âm thịnh dương suy, con gái dễ phát sinh dâm loạn,con trai chơi bời nghiện ngập, tiêu tán tổ nghiệp, bại hoại gia phong.
Mã cung là cát cung, vì vậy ngoài cách đặtcửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, phòng khách, phòng làm việc, cầu thang, bàn thờ đều rất tốt. Chỉ có giường ngủ của nữ lưu không nên đặt tại Mã cung, nữ giới có giường ngủ đặt tại mã cung thì tâm bất an, không ở yên một chỗ, là tượng bất lợi vậy.
Quý Nhân
Quý nhân Thiên ất là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù;Quý nhân một ngày hai mặt âm dương chia nhau trị nội ngoại theo quy luật tương khắc của sự phối hợp can chi. Lấy Sửu mùi là cửa xuất nhập của quý nhân, nên giáp mậu ra tại sửu mùi, sửu mùi là thuần thổ nên phải phối Giáp với Mậu là mộc thổ tương khắc. Lấy ất Kỷ ra tại Tý Thân,ất là mộc,Tý là thuỷ, Thân là kim, là kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc nên phải phối ất với Kỷ làmộc thổ tương khắc. Lấy canh tân ra Ngọ Dần, Lấy Bính Đinh ra Hợi Dậu là hoả kim tương khắc. Lấy Nhâm Quý ra Mão Tị là thuỷ hoả gia tranh. Hai vị trí Thìn Tuất là vị trí của Thiênla, Địa võng nên Quý nhân không ra. Lại có thuyết nói rằng âm dương Quý nhân là căn cứ vào Khôn quái ra vào hậu tiên thiên mà thành. Dương Quý nhân khởi ở Khôn tiênthiên mà đi thuận, Âm Quý nhân khởi ở Khôn hậu thiên mà đi nghịch. Như dương Quý khởi ở khôn tiên thiên, tức là lấy Giáp ra vào Tý, Giáp hợp với kỷ cho nên Kỷ dùng Tý làm Quý nhân thuận hành, vì thế lấy ất ra Sửu. ất hợp canh cho nên Canh dùng Sửu làm Quý nhân. Sau cứ theothứ tự mà tính. Thìn là Thiên cương, Tuất là Hà khôi Quý nhân không ở; Ngọ với Tý tương xung nhau không dùng. Âm Quý khởi ở Khôn tiên thiên, tức là lấy Giáp gia vào Thân, Giáp hợp với Kỷ, nên Kỷ dùng Thân làm Quý nhân. Âm quý nghịch hành nên lấy ất ra Mùi. ất hợp Canh nên Canh dùng Mùi làm Quý nhân; sau cứ theo thứ tự nghịch hành mà ra vào. Như gặp Thìn,Tuất, Dần thời vượt qua. Người xưa nói rằng: ” Sửu Mùi là cửa xuất nhập của Thiên ất Quý nhân” chính là theo quy luật của âm dương để xếp bày đức của thiên can Mùi đủ là Quý thấm sâu được sự phối hợp hài hoà của âm dương cho nên cực kỳ cát khánh, có thể giải hung ách vậy. Nhà có chính môn ra Quý là đại cát khánh,gia đạo bình an, hoà thuận, hỉ khí đầy nhà, luân gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ,là thần giải trừ tai ách nên nhà ra Quý là gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, gặp hung hoá cát. Sự nghiệp thì hiển vinh, công danh sớm đạt, dễ thăng quan tiến chức, học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp. Quý nhân gặp sinh vượng thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt,thẳng thắn mà ôn hoà, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ không vong tử tuyệt thì nguồn phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc tai nạn cũng khó tránh bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn hại, kiện cáo, thị phi, lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà xuất đời vất vả không nên người. Quý nhân ra thoái khí nếu lại ngộ đào hoa nữa thì nam nữ tuy thông minh tuấn tú,nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thời dâm đãng, ham chơi làm bại hoại gia phong, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải đầu hà, hay tự vẫn vì tình.
Quý nhân là cát khí rất tôn quý nên ra vào cung nào cũng rất tốt. Cửa phụ, phòng khách, phòng làm việc, cầu thang, bàn thờ, buồng ngủ đều nên chọn cung ra Quý. Đặc biệt bàn thờ nên đặt cung có âm Quý nhân là đại cát khánh,như thế sẽ luân được âm linh phù trợ. Chỉ lưu ý là phòng tắm, nhà vệ sinh thì tuyệt đối không thể đặt nhầm vô cung Quý nhân, nếu không thì hoạ hại liên miên, nữ nhân thiếu máu, động thai, sinh con dù có xinh đẹp nhưng rồi cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm cuối cùngtự vẫn, tài sản tiêu tán, yêu ma hoành hành, gia đình có người bị cướp bóc, chém giết máu me thảm khốc, bệnh tật, đau khổ triền miên, tiếng khóc than ai oán. Có thể nói rằng nếu để nhầm nhà vệ sinh vào cung ra âm quý nhân thì sẽ gặp tai hoạ khủng khiếp khó mà lường trước được vậy.
Thiên Hình
”Kim cương, hoả cường đều giữ phương của nó. Mộc rụng quay về cội, thủy chảy hướng tới mùi ” Kim hoả cương cường, thuỷ mộc nhu nhược,vì vậy kim hình phương kim, hoả hình phương hoả, cương cường tất tự sát. Mà kim chẳng cương ở Dậu, hoả chẳng cường ở Ngọ, thì là tự sát ở bản phương mà còn tự sát thân đó cũng là nói cương cường thì hình tại vượng. Lấy Tị Dậu Sửu hình Thân Dậu Tuất thì Tị hìnhThân, Sửu hình Tuất, Dậu chuyển ra tự hình. Lấy Dần Ngọ Tuất hình Tị Ngọ Mùi thì Dần hình Tị,Tuất hình Mùi, Ngọ chuyển ra tự hình đều là giữ phương của nó.
Thuỷ mộc nhu nhược tất bị giết ở nơi sinh ra với chỗ sinh ra cũng tức là thuỷ sinh mộc mà hình mộc, mộc sinh ở thuỷ mà hình thuỷ,cửa sinh ra ta là cửa ta chết. Lấy Hợi Mão Mùi hình Hợi Tý Sửu thì Mão hình Tý, Mùi hình Sửu, Hợi chuyển ra tự hình. Hợi là gốc rễ của mộc, cho nên mộc rụng quay về gốc rễ. Lấy ThânTý Thìn hình Dần Mão Thìn thì Thân hình Dần, Tý hình Mão, Thìn chuyển ra tự hình. Thìn là thuỷ khố, cho nên nước chảy hướng về Mùi.
Chính môn ra Hình thì hại vô cùng vì Hình chủ tù ngục, kiện tụng là tượng của sự chém giết, mổ sẻ, châm chích. Hình ra môn thì gia đạo thường xuyên gặp hoạ, tai bay vạ gió từ đâu kéo đến, những người sống trong nhà nàytuổi thọ bị triết giảm, trong người hay phải mang thương tật lại dễ sẩy ra kiện tụng, hay những việc liên quan đến ngục hình, trai khắc vợ, gái sát chồng. Hình ra môn cũng thường sinh ra người tính khí hung bạo, liều lĩnh, bướng bỉnh, ngang ngạnh và gian trá, lại hay mang tật trong mình, lớn nên ắt phá tán tổ nghiệp, phải xa hương mưu thực
Có thể nói rằng Thiên Hình ra cung nào cũng hung, nếu nó thất hãm còn đỡ chứ miếu vượng thì vô cùng nguy hiểm. Giường ngủ hay bàn học của con trẻ nếu để cung Thiên Hình thì học tài thi phận, học hành dù có giỏi giang, sáng dạ mà thi cử không may, điểm số không cao tương sứng với học lực. Thiên Hình đóng ở cầu thang mà gặp Mã thì là Mã què chủ gặp vướng mắc khó khăn trong công việc, nhất là những công việc liên quan đến giấy tờ, thủ tục hành chính. Nếu Hình vượng thì còn chủ hay bị tai nạn giao thông, hay những tai nạn thương tích đếnchân tay. Hình Lộc đi cùng nhau thì chủ hay bị mất cắp, hoặc làm ăn đổ bể, thất tài, phá sản, hoặc do làm ăn bất chính mà phải dính dáng đến pháp luật. Tóm lại cung ra Tuế hình chỉ nên đặt nhà vệ sinh hay phòng tắm để yểm trấn là tốt nhất khi ấy Thiên Hình không còn hiệu lực phát tác trở thành vô hại.
Đại Sát
Đại sát là sát của âm khí, đó là đặc biệt độc. Thường đóng ở tứ quý. Đất của Tuế sát không thể phạm vào, phạm vào tất thương tổn. Theo thuyết tam tài thì thiên lấy 1 mà tròn, địa lấy 2 mà vuông, nhân lấy 3 mà là góc. Một sinh hai, hai sinh ba, đến chỗ ba màvạn vật sinh thành. Tròn mà vuông ba góc xuất ra ở đó. Như vậy thì trời đất hết sức giản dị lấychỗ cùng cực thì hết sức u thân huyền diệu suy ra đến hết chỗ kín đáo của thiên hạ. Như vậy thì bagóc là tâm của thiên địa, khởi đầu của âm dương, chỗ hội tụ của quỷ thần, tú khí của ngũ hành.Như vậy là tam hợp, chỗ tối trọng của thần sát, tam hợp tất ở ba góc vậy. Trong tam hợp DầnNgọ Tuất thành hoả cục mà Dần la đầu, Sửu đóng ở trên Dần, ấy là dựa vào đỉnh đầu của nó mà đè xuống, Dần bị đè nén cho nên lấy Sửu là Tuế sát. Tam hợp Thân Tý Thìn thuỷ cục mà Thân là đầu, Mùi đóng ở trên Thân, ấy là dựa vào đỉnh đầu của nó đè xuống, Thân bị Mùi đè nén nên lấy Mùi là Tuế sát. Tam hợp Tị Dậu Sửu kim cục mà Tị là đầu, Thì đóng ở trên Tị, ấy là dựavào đỉnh đầu của nó mà đè xuống, Tị bị Thìn đè nén nên lấy Thìn làm Tuế sát. Tam hợp Hợi Mão Mùi mộc cục mà Hợi là đầu, Tuất đóng ở trên Hợi, ấy cũng là dựa vào đỉnh đầu của nó mà đè xuống, Hợi bị Tuất đè nén nên lấy Tuất làm Tuế sát. Nhà có chính môn ra Sát là vào cách hung hoạ nhất, chủ tai nạn chết chóc, ốm đau bệnh tật, ly tán, cô quả, tai nạn giáng xuống liên miên, nặng thì mất mạng toàn gia và cái chết đến mộtcách rất thê thảm, khủng khiếp, nhẹ thìcũng quan trường bãi miễn, gia sản lụn bại, bần cùng. Tuế sát ra môn cũng thường sinh ra người yểu tử ( hữu sinh vô dưỡng) hoặc sinh ra người tính tình ương ngạch, hiếu thắng, hung tợn,nham hiểm, bất nhân, nhưng có óc kinh doanh, thủ công, kỹ nghệ. Tuy nhiên vẫn suất đời vấtvả, thường mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên công cán gì. Loại nhà này chẳng thể ở lâu phải mau chóng sửa trị kịp thời. Cũng như Thiên Hình, Đại Sát là một sao đại hung hoạ nên ra vào cung nào cũng hung, giường ngủ hay bàn học của con trẻ nếu để cung Đại Sát ra sinh vượng khí thì học tài thi phận, học hành dù có giỏi giang, sáng dạ mà thi cử không may, điểm số không cao tương sứng với học lực. Nếu lại ra tử tuyệt thì lười biếng,ham chơi lại hay nói dối trá và tất nhiên là lực học yếu kém. Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vô cung ra Đại Sát nếu không sẽ có người điên khùng hoảng loạn. Người điên khùng ở đây có thể do ốm đau, tai nạn mà thành tâm thần, nhưng cũng có thể có triệu trứng như bị ma làm, tức là bệnh trạng không rõ ràng rất là kỳ lạ. Cũng có thể sinh ra người cờ bạc, nghiện hút, hay đang hiền lành ngoan ngoãn bỗng trở nên đổ đốn, hư hỏng; hoặc nặng hơn là trong nhà sẽ có người tự vẫn.Cung ra Đại Sát chỉ có thể đặt nhà vệ sinh hay phòng tắm được mà thôi.
Độc Hoả
Độc hoả là khí hoả thịnh vượng, là hoả khí do sự biến đổi của âm dương tạo ra, nó chính là khí Liêm trinh nên mang nhiều sát khí. Thông thư nói rằng: Như Tý thuộc Khảm, đối cung là Ly, tức là lấy Ly làm quẻ của bản cung, một hào dưới biến là Cấn là Liêm trinh, vì vậy Tý lấy Cấn làm Độc Hoả. Sửu Dần đều thuộc Cấn đối cung là Khôn, tức là lấyKhôn làm quẻ bản cung, đổi một hào dưới biến thành Chấn, nên Sửu Dần đều lấy Chấn làm ĐộcHoả. Mão thuộc Chấn đối cung là Đoài, Đoài là bản cung của Mão, biến hào sơ thành Khảm, nên Mão lấy Khảm làm Độc Hoả. Thìn Tị đều thuộc Tốn đối cung là Càn, tức là lấy Càn làm quẻ bản cung, biến hào sơ thành Tốn, nên đều lấy Tốn làm Độc Hoả. Ngọ thuộc Ly đối cung là Khảm, Khảm là bản cung của Ngọ, biến hào sơ thành Đoài, nên Ngọ lấy Đoài làm Độc Hoả. Mùi Thân đều thuộc Khôn đối cung là Cấn, tức là lấy Cấn làm quẻ bản cung, biến hào sơ thành quẻ Ly, nên đều lấy Ly làm Độc Hoả. Dậu thuộc Đoài đối cung là Chấn, Chấn là bản cung củaDậu, biến hào sơ thành Khôn, nên Dậu lấy Khôn làm Độc Hoả. Tuất, Hợi đều thuộc Càn đối cunglà Tốn, tức là lấy Tốn làm quẻ bản cung, biến hào sơ thành quẻ Càn, nên đều lấy Càn làm ĐộcHoả. Tý Ngọ Mão Dậu là tứ chính, Dần Thân TỵHợi là Tứ ngung nên lấy Dần là chính khí của Cấn, Mão là chính khí của Chấn, Tị làchín khí của Tốn, Ngọ là chính khí của Ly, Thân là chính khí của Khôn, Dậu là chính khí của Đoài, Hợi là chính khí của Càn, Tý là chính khí của Khảm. Độc hoả lâm môn thì hoả khí vượng khiến dễ bị hoả tai lại hay bị hoả khí bốc lên đầu mà
sinh ra bệnh tật, và dẫn dắt những người sống trong nhà này sự sự hồ đồ, lỗ mãng. Độc hoả lâm môn lại cũng hay sinh ra những người nóng tính hung bạo, liều lĩnh, thích làm ra những chuyện rồ rại, ngông cuồng. Độc hoả dù ngũ hàn là hành gì thì cũng là đới hoả, khí hoả làm chủ mà hoả khắc kim tiền nên Độc hoả lâm môn cũng đồng nghĩa là thoái tài, nghèo khổ. Độc hoả là hung tinh nên ra vào cung nàocũng không tốt, tuy nhiên Độc hoả là hung tinh nhưng không phải là Đại hung tinh như là Đại sát, Thiên hình nên chỉ có ra cửa hay ra bếp, bàn thờ mới thật sự là hung cần phải kiêng tránh còn những trường hợp khác có thể châm trước. Bàn thờ và nhà bếp là hai cung phát hoả nên không nên đặt bàn thờ và bếp vào cung Độc hoả.